Hà Nội, mùa thu năm ấy, ngày 2/9/1945, giữa hàng vạn người dân Thủ đô và các đoàn thể từ khắp nơi đổ về quảng trường Ba Đình, lời tuyên bố thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vang lên: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập...”. Bản Tuyên ngôn độc lập đã chính thức khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, kết thúc sự đô hộ của thực dân Pháp và ách thống trị phong kiến. Trong ánh mắt rưng rưng của người dân, giữa những tiếng hô vang "Việt Nam độc lập muôn năm", ở xung quanh lễ đài và các khu vực, những chiến sĩ Công an cách mạng đầu tiên đã âm thầm làm nhiệm vụ, giữ gìn cuộc sống an toàn của nhân dân và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ.
Ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng, trong điều kiện vô cùng khó khăn, về tổ chức và cán bộ lực lượng Công an đã chủ động đề xuất những định hướng quan trọng để xây dựng nền an ninh cách mạng, với phương châm dựa vào dân mà làm, vì nhân dân mà chiến đấu.
Ngay sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, dưới danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật, 20 vạn quân đội Trung Hoa Dân Quốc kéo vào miền Bắc nước ta với âm mưu dùng việc chiếm đóng Việt Nam để mặc cả về quyền lợi với Pháp, mặt khác ủng hộ và làm chỗ dựa cho lực lượng Việt Nam Quốc dân đảng lật đổ chính phủ Hồ Chí Minh, thành lập chính quyền thân Trung Hoa Dân Quốc. Để đối phó với các thế lực phản động, lực lượng CAND được Đảng và chính quyền cách mạng giao nhiệm vụ theo dõi, giám sát và kiên quyết trừng trị những tên phản động, trấn áp các hoạt động phá hoại cách mạng của các lực lượng thù địch. Không ít cán bộ Công an khi ấy là những thanh niên chưa bước qua tuổi 20. Họ xuất thân từ nông dân, công nhân, trí thức yêu nước, tình nguyện mang theo lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với Bác Hồ và nhân dân. Lịch sử vẫn còn ghi lại những cái tên như Trần Văn Lai, Nguyễn Văn Tạo, Hoàng Mai... - những chiến sĩ Công an đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh, bảo vệ cơ quan đầu não, ngăn chặn giặc nội phản. Máu của họ, cùng với máu của bao anh hùng liệt sĩ khác, đã hòa vào nền đất đỏ của Tổ quốc, làm nên một mùa thu bất tử.
Sau khi tổ chức tiền thân của CAND được thống nhất thành Việt Nam Công an vụ (ngày 21/2/1946), lực lượng Công an đã thống nhất hoạt động, triệt phá được nhiều kế hoạch phá hoại của địch, bảo vệ vững chắc chính quyền cách mạng. Chiến công nổi bật của lực lượng CAND thời kỳ này là ngày 12/7/1946, Nha Công an Trung ương đã phá thành công vụ án phản cách mạng ở số 7 Ôn Như Hầu nay là phố Nguyễn Gia Thiều (Hà Nội); phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang nhân dân đồng loạt tấn công vào các trụ sở Quốc Dân đảng, bắt trên 100 tên, đập tan âm mưu đảo chính, lật đổ chính quyền cách mạng của thực dân Pháp và bọn phản động. Đến tháng 11/1946, ở Nha Công an Trung ương thành lập Chi bộ Đảng ở hầu hết các sở, ty đều thành lập Chi bộ hoặc Tổ Đảng trực thuộc cấp ủy địa phương, làm nòng cốt của lực lượng lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và giáo dục chính trị, tư tưởng cho CBCS, thu hút quần chúng vào cuộc đấu tranh chống phản cách mạng…
Từ đó cho đến nay, trải qua 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, lực lượng CAND Việt Nam luôn trung thành tuyệt đối với Đảng, gắn bó máu thịt với nhân dân, lập nên nhiều chiến công hiển hách trong sự nghiệp cách mạng, xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phát huy truyền thống anh hùng cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, CAND nỗ lực xây dựng chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đổi mới tổ chức, tinh gọn bộ máy, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ CBCS đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.