Thuở ban đầu, dù có nhiều tên gọi khác nhau nhưng các tổ chức tiền thân của CAND đã ra sức bảo vệ Đảng, bảo vệ tổ chức cách mạng, hỗ trợ quần chúng nhất tề đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc. Đồng thời, phối hợp với các lực lượng chiến đấu anh dũng nhằm bảo vệ và giữ vững chính quyền non trẻ ngay sau khi thành lập, trấn áp phản cách mạng và giữ gìn ANTT.
Ngay từ khi thành lập đầu năm 1930, trước đòi hỏi khách quan của yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xây dựng và tổ chức “Đội Tự vệ đỏ”, “Đội Tự vệ cứu quốc”, “Hộ lương diệt ác”, “Đội Trinh sát”, “Đội Danh dự trừ gian”... Đây là những tổ chức tiền thân của lực lượng vũ trang cách mạng, trong đó có CAND, để bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ phong trào cách mạng, tham gia trừ gian, diệt ác, chống mật thám, phản động, góp phần thúc đẩy sự tan rã của địch, tạo điều kiện thuận lợi để giành chính quyền về tay nhân dân.
Thấm nhuần lời dạy của V.I Lênin “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự vệ”, ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã xác định con đường cách mạng bạo lực để giành chính quyền về tay nhân dân và thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng lực lượng chính trị và vũ trang chống bọn mật thám, chỉ điểm, bọn AB để bảo vệ Đảng, bảo vệ cơ sở, phong trào cách mạng.
Trong phong trào cách mạng 1930 - 1931 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh do Đảng lãnh đạo, “Đội Tự vệ Đỏ” ra đời để hỗ trợ các cuộc đấu tranh của quần chúng, chống địch khủng bố, trấn áp bọn Việt gian, bảo vệ cán bộ và tuần tra canh gác, bảo vệ xóm làng, giữ gìn trật tự trị an ở những nơi có chính quyền Xô viết. Trong thời gian này, ở Nghệ An, đã có 97 cuộc bãi công và biểu tình của quần chúng có vũ trang tự vệ tham gia. Sau cuộc tổng bãi công của công nhân Bến Thủy là những cuộc biểu tình khổng lồ của quần chúng ở Nam Đàn, Thanh Chương, Can Lộc. Những cuộc đấu tranh đó đều có lực lượng tự vệ đi kèm, đã hạ uy thế chính trị của chính quyền tay sai, làm cho bọn tổng lý, cường hào hoảng sợ và làm sụp đổ chính quyền của chúng ở cơ sở, đồng thời cũng hình thành các Xô viết ở hàng trong làng, xã.
Hưởng ứng Xô viết Nghệ Tĩnh, phong trào cách mạng của quần chúng diễn ra sôi nổi và rộng khắp trong cả nước. Các Đội Xích vệ ở Hải Phòng, Đội Tuyên truyền xung phong ở Hà Nội, Tự vệ vũ trang ở Ninh Bình, Đội Tự vệ công nhân ở Sài Gòn - Chợ Lớn, Tự vệ bảo an ở Sa Đéc… lần lượt ra đời, luôn đi đầu trong các cuộc mít tinh, bãi công và đấu tranh chống địch đàn áp, khủng bố, bảo vệ cán bộ, bảo vệ phong trào cách mạng với nhiều hình thức phong phú, linh hoạt.
Mặc dù phong trào Xô viết bị đàn áp trong biển máu nhưng những bài học kinh nghiệm quý báu về việc tổ chức, duy trì và phát triển lực lượng tự vệ vẫn còn nguyên giá trị. Khẳng định vai trò của Đội Tự vệ, trong “Thông cáo cho các xứ”, Thường vụ Trung ương Đảng nêu rõ: “Một vấn đề rất quan trọng cho sự tranh đấu của quần chúng bây giờ là vấn đề tổ chức Đội Tự vệ của công nông. Các đảng bộ góp sức với Công, Nông hội mà hết sức hô hào cổ động thiệt rộng trong quần chúng ý nghĩa về sự lợi ích của Đội Tự vệ…”.
Ngày 27/3/1935, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất họp tại Macao (Trung Quốc) thông qua nhiều nghị quyết quan trọng, trong đó có nghị quyết về Đội Tự vệ. Nghị quyết nêu rõ: “Không có một sản nghiệp nào, một làng nào có cơ sở của Đảng, của Đoàn, của các hội quần chúng cách mạng mà không có tổ chức Đội Tự vệ, đó là khẩu hiệu của chúng ta hiện nay”.
Nhiệm vụ của Đội Tự vệ là “Công nông cách mạng Tự vệ đội tổ chức ra mục đích để: ủng hộ quần chúng hằng ngày; ủng hộ quần chúng trong các cuộc tranh đấu; ủng hộ các cơ quan cách mạng và chiến sĩ cách mạng của công nông; quân sự huấn luyện cho lao động cách mạng. Chống quân thù giai cấp tấn công và làm cho vận động cách mạng phát triển thắng lợi”. Nghị quyết cũng xác định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Đội Tự vệ là dưới quyền chỉ huy thống nhất của Trung ương, Quân ủy của Đảng Cộng sản, lấy sản nghiệp và làng hay xã làm cơ sở tổ chức.
Tháng 9/1939, chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, một năm sau, phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, từ đó “Dân tộc ta một cổ hai tròng, đã làm trâu ngựa cho Tây, lại làm nô lệ cho Nhật”. Trước sự khủng bố của kẻ thù, Đảng ta rút vào bí mật tiếp tục lãnh đạo phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật.
Cuối năm 1939, đầu năm 1940, An toàn khu 1 (ATK 1) được Đảng xây dựng. Các cơ quan của Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ làm việc tại đây. Ban Công tác đội được thành lập để bảo vệ ATK, bảo vệ Đảng. Ban Công tác đội được trang bị vũ khí thô sơ, huấn luyện về phương pháp công tác bảo vệ và kĩ thuật chiến đấu, bảo vệ cán bộ cao cấp của Đảng, bảo vệ các hội nghị của Trung ương, giải thoát cán bộ đảng khi bị địch lùng bắt và làm nhiệm vụ cảnh vệ.
Tháng 11/1941, Đội Tự vệ cứu quốc được thành lập ở Cao Bằng làm nhiệm vụ bảo vệ Đảng, giữ vững giao thông liên lạc, đồng thời tuyên truyền và huấn luyện tự vệ cứu quốc của các bản, xã. Cách mạng ngày càng phát triển, tháng 4/1944, Trung ương Đảng quyết định xây dựng ATK 2 nối liền với ATK 1. Mặt trận Việt Minh ngày càng thu hút hàng vạn quần chúng tham gia. Các Hội Cứu quốc được thành lập ở nhiều tỉnh miền Bắc, miền Trung.
Ngày 7/5/1944, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị: “Sửa soạn khởi nghĩa”. Theo đó các địa phương từ Bắc đến Nam đã thành lập các Đội Tự vệ, đội AS (ám sát) để diệt trừ bọn mật thám, phản động, tay sai của Nhật, Pháp. Đêm 9/3/1945, phát xít Nhật nổ súng hất cẳng Pháp, độc chiếm Đông Dương. Nắm bắt thời cơ, ngày 12/3/1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị: “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Nhân dân cả nước đã dấy lên cao trào kháng Nhật cứu nước.
Tháng 5/1945, Hội nghị quân sự Bắc Kỳ họp, đề ra biện pháp cần kíp xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng các căn cứ địa kháng Nhật, chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa. Trong thời kỳ này, ở các địa phương thành lập các Đội Trừ gian, Đội Trinh sát để làm nhiệm vụ nắm tình hình, trừng trị bọn mật thám, bọn Việt gian tay sai đế quốc.
Ngày 15/5/1945, Xứ ủy Bắc Kỳ quyết định thành lập Đội Danh dự trừ gian, sau đổi tên là Đội Danh dự Việt Minh trên cơ sở Đội AS của Thành ủy Hà Nội trước đây, làm nhiệm vụ diệt trừ bọn Việt gian phản động đầu sỏ nguy hiểm và vũ trang tuyên truyền khi cần thiết. Từ ngày thành lập đến ngày tổng khởi nghĩa giành chính quyền, Đội Danh dự trừ gian đã trừng trị nhiều tên Việt gian đầu sỏ có tội ác như: Nguyễn Duy Mỹ, Trương Anh Tự, Phán Sinh, Nga Thiên Hương.
Cuối tháng 7, đầu tháng 8/1945, đội đã cùng phối hợp với các tổ chức cách mạng như Đoàn Thanh niên xung phong Hoàng Diệu, Đội Tự vệ cứu quốc tiến hành vũ trang tuyên truyền tại các rạp chiếu bóng, rạp hát ở Hà Nội rồi mở rộng địa bàn theo sự chỉ đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ. Những hoạt động trừ gian, diệt ác, trấn áp bọn lưu manh côn đồ đã góp phần đẩy mạnh phong trào cách mạng, phát huy khí thế của quần chúng, thúc đẩy thêm sự tan rã của địch, tạo điều kiện giành chính quyền về tay nhân dân.